Chi tiết

Khánh Đồng tụng kinh là gì?

Khánh đồng tụng kinh là một loại pháp khí (nhạc khí) bằng đồng, không thể thiếu trong các buổi lễ Phật giáo, được sử dụng để tạo hiệu lệnh, báo hiệu, hướng dẫn đại chúng tụng kinh, hoặc sử dụng trong các buổi tế lễ, rước lễ, phòng sinh. Âm thanh của khánh được xem là giúp tâm trí người nghe buông bỏ ưu phiền, hướng đến sự thanh tịnh và an lạc. 

Công dụng và ý nghĩa của khánh đồng tụng kinh

Khánh đồng là hiệu lệnh và báo hiệu: Khánh đồng được sử dụng để báo hiệu các buổi lễ, như giờ giấc sinh hoạt trong chùa, thỉnh đại chúng tụng kinh, hay báo hiệu sự xuất hiện của khách đến viếng. 
Khánh đồng hỗ trợ tụng niệm: Âm thanh trầm ấm, thanh tịnh của khánh giúp người tụng kinh giữ tâm trí tập trung, tránh tạp niệm và hướng dẫn đại chúng đi vào không gian thiền định. 
Khánh đồng có thể trấn giữ, xua đuổi tà khí: Theo quan niệm tâm linh, khánh đồng còn được xem là pháp khí giúp trấn giữ ma quỷ, những điềm xấu, xua đuổi tà khí, mang lại may mắn và điềm lành. 
Dẫn dắt hành giả: Tiếng khánh giúp dẫn khởi đại chúng trong các nghi thức hành lễ, chỉ huy hoạt động của tăng chúng một cách trang nghiêm. 

Phân loại và Cấu tạo khánh đồng tụng kinh

Khánh tròn/Chuông gia trì: Đây là loại khánh hình bát úp, đặt trong giá gỗ, được gọi là chuông gia trì trong văn hóa Việt Nam, dùng để báo hiệu, gõ khi bắt đầu và kết thúc buổi lễ. 
Khánh tay/Dẫn khánh: Loại này có hình dáng như trái đào, dưới đáy có khoét lỗ để gắn cán, dùng thanh đồng hoặc sắt để gõ, có tác dụng dẫn dắt chúng trong các buổi lễ. 
Chất liệu khánh đồng: Khánh đồng được đúc hoàn toàn từ đồng nguyên chất hoặc hỗn hợp đồng với kim loại. 

Mô tả Khánh đồng tụng kinh 

- Chất liệu: đồng

- Màu sắc: hình mẫu

- Kích thước:  đường kính chuông 5cm, chiều cao bình thường 15.5cm, rút ra chiều dài 32.5cm

-----------------------------------------------------------

Tác Dụng của khánh đồng tụng kinh

- Khánh đồng tụng kinh là pháp khí không thể thiếu trong văn hóa tâm linh của người Việt Nam. Nó có công dụng là tạo sự nhịp nhàng hòa âm với người tụng đọc, để tránh việc người tụng trước người tụng sau. Ngoài ra còn tạo cho không gian phụng thờ thêm phần trang nghiêm, thanh tịnh, giúp người tụng niệm tập trung cao độ, nhất nguyện hướng về cõi phật.

-Sản phẩm được thiết kế nhỏ gọn, dễ lau chùi, tiếng thanh và ngân vang nên khách hàng hoàn toàn yên tâm trong việc chọn mua sản phẩm.

----------------------------------------------------

Nghi thức chuông mõ khi tụng kinh.

Hai bên bàn thờ Phật, chuông để bên tay trái đức Phật, mõ bên tay phải.

Trước khi bắt đầu thời kinh, người đánh chuông gia trì thỉnh 6 tiếng, để báo cho mọi người biết, chánh điện đã lên nhang đèn xong, mời mọi người giữ 6 căn thanh tịnh vào lễ Phật, tụng kinh.

Khi chủ lễ vào vị trí, bắt đầu niệm hương, thỉnh 3 tiếng chuông, sau đó thấy chủ lễ xá thì thỉnh 1 tiếng chuông, khi lạy thì thỉnh 1 tiếng chuông, lúc trán chạm xuống nền thì dùng dùi chuông gõ vào vành chuông nhưng giữ lại trên vành chuông, không cho âm thanh ngân vang, gọi là dập.

Sau khi Chủ lễ niệm bài Quán tưởng và Ðãnh lễ, hoặc trước bài Tán Lư Hương:Lư hương xạ nhiệt ... hoặc Tán Dương Chi:Dương Chi tịnh thủy ... hoặc Cử Tán:Chiên đàn hải ngạn ... thì khai chuông mõ như sau : Chuông thỉnh trước ba tiếng O O O (ba tiếng rời nhau)

Mõ gõ tiếp theo chuông bảy tiếng: –     –     –     –     – –     – (bốn tiếng rời, hai tiếng liền nhau và một tiếng rời ra sau cùng)

Rồi chuông mõ hòa với nhau như sau O  –  O  –  O  –     –     – – O (chuông thỉnh trước, mõ gõ sau, sau 3 tiếng thì chuông ngừng, mõ gõ tiếp theo tiếng thứ tư, năm sáu gõ liền nhau, tiếng thứ bảy của mõ, thì chuông thỉnh một lượt với tiếng mõ.

Trong mỗi bài kinh, kệ, chú mỗi một tiếng, mõ phải gõ một cái, chú luôn luôn đọc nhanh nên mõ phải gõ nhanh. Bất cứ bài nào cũng vậy mõ bắt đầu gõ vào tiếng thứ 2, thứ 4 và những tiếng tiếp theo, và khi còn 5 tiếng chấm dứt thì mõ gõ rất chậm, rồi gõ liền 2 cái ở tiếng áp chót và một cái ở tiếng chót.

Còn chuông thì trong bài dài, thỉnh thoảng thỉnh một tiếng chuông, những bài chú niệm ba lần, bảy lần, mười lần, hai mươi mốt lần, cứ mỗi lần hết là thỉnh một tiếng chuông, còn niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát ba lần, mười lần hay nhiều hơn, sau ba lần hay mười lần ấy mới thỉnh chuông (thường chú ý vào vị chủ lễ, khi thấy vị chủ lễ cuối đầu xá, đó là chấm dứt niệm chú hay chuyển sang niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát khác). Cuối mỗi bài kinh, kệ, chú thỉnh chuông vào tiếng thứ 5, thứ 3 và tiếng sau cùng.

-------------------------------------------------------

#chuông #khánh_tay #khánhtụngkinh #khánh_tụng_kinh #khanhtungkinh #khanh_tung_kinh #khánhtụngkinhđàiloan #khánh_tụng_kinh_đài_loan #khanhtungkinhdailoan 

Ý kiến khách hàng